Thông tin chung
Khu dự trữ sinh quyển thế giới Langbiang thuộc tỉnh Lâm Đồng. Đa dạng sinh học trong khu vực cao và bao gồm nhiều loài có nguy cơ tuyệt chủng được tìm thấy trong Sách Đỏ Quốc tế. Vùng lõi bao gồm một hành lang đa dạng sinh học duy trì tính toàn vẹn của 14 hệ sinh thái nhiệt đới ở phía đông nam bộ Việt Nam và trên toàn lãnh thổ Việt Nam nói chung. Nó cũng có chức năng là môi trường sống của nhiều loài động vật hoang dã, trong đó có một số loài được xếp vào loại quý hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng, chẳng hạn như gấu chó (Helarctos malayanus). Nông, lâm nghiệp và thủy sản là nguồn tạo việc làm chính cho cộng đồng địa phương. Trong số các loại cây trồng, hoa, cà phê và chè là những cây có doanh thu mạnh nhất trong khu vực.
Thông tin chi tiết
Diện tích bề mặt: 275439 ha
Vị trí Vĩ độ: 12.02 – Kinh độ: 108.46
Đặc điểm sinh thái
Khu bảo tồn nằm ở phía bắc tỉnh Lâm Đồng, Tây Nguyên Việt Nam. Đây là một trong bốn trung tâm đa dạng sinh học quốc gia. Độ cao dao động từ 650m đến gần 2.300m với nhiều hệ rừng khác nhau, bao gồm rừng thường xanh núi trung du, rừng hỗn giao lá rộng lá kim, rừng nguyên sinh, rừng lùn núi cao, rừng rêu, tre nứa và thảo nguyên. Khu bảo tồn cũng chứa những cây quý có niên đại 1.000 năm, hiện đang được nghiên cứu bởi các thành viên của Phòng thí nghiệm Vòng cây tại Đài quan sát Trái đất Lamont-Doherty của Đại học Columbia, New York. Khu bảo tồn được đặc trưng bởi sự đa dạng phong phú về thảm thực vật, bao gồm hệ sinh thái rừng thông Krempf (Pinus krempfii) và rừng lùn trên địa hình gò đồi phân bố trên 60% tổng diện tích rừng. Khu bảo tồn cũng bao gồm tổng số 1.940 loài thực vật thuộc 825 chi và 180 họ, trong đó có 64 loài được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và 34 loài có giá trị bảo tồn cao. Các loài thực vật có vai trò quan trọng trong bảo tồn và sử dụng làm dược phẩm. Chúng cũng bao gồm hai loài có nguy cơ tuyệt chủng cao – Trầm hương (Aquilaria crassna) và lan đốm (Gastrochilus calceolaris) – và ba loài có nguy cơ tuyệt chủng toàn cầu – xoài đồng nai (Mangifera dongnaiensis), meranti trắng (Shorea roxburghii) và Cinnamomum balansae. Nhìn chung, 89 loài động vật có vú, 247 loài chim, 46 loài bò sát, 46 loài lưỡng cư, 30 loài cá và 335 loài côn trùng đã được ghi nhận trong khu bảo tồn. Trong đó có 5 loài nguy cấp toàn cầu là hổ Đông Dương (Panthera tigris corbetti), chà vá chân đen (Pygathrix nigripes), vượn má vàng (Nomascus gabriellae), bò rừng Ấn Độ (Bos gaurus) và khỉ lá bạc Đông Dương (Trachypithecus margarita). . Gấu ngựa (Helarctos malayanus) và báo gấm (Neofelis nebulosi) được xếp vào các loài quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng và được ghi trong Sách đỏ Việt Nam. Khu bảo tồn cũng là nơi lưu giữ văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam, được ghi vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO.
Đặc điểm kinh tế – xã hội
Vào cuối năm 2011, dân số của khu bảo tồn lên tới khoảng 570.000 người, trải rộng trên 6 địa phương, trong đó tập trung chủ yếu ở thành phố Đà Lạt. Nhóm chính là người Kinh, tiếp theo là các cộng đồng dân tộc khác bao gồm K’Ho, Tày, Nùng và Chăm. Tỷ lệ có việc làm cao nhất trong các ngành du lịch, nông lâm ngư nghiệp. Trong số các loại cây trồng, hoa, cà phê và chè tạo ra doanh thu cao nhất trong khu vực. Các nhà khoa học và khảo cổ học đã tìm thấy một số lượng lớn các di tích khảo cổ học trong các cuộc khai quật gần đây trong khu vực. Trong đó có các di vật thời kỳ đồ đá cũ tìm thấy ở suối Đầu Voi, Núi Voi, xã P’ro và khu mộ táng ở xã Đạ Đờn. Cũng đáng chú ý là văn hóa cồng chiêng, của Tây Nguyên Việt Nam. Cồng chiêng đại diện cho tiếng nói của tinh thần, tâm hồn con người và được sử dụng để thể hiện niềm vui, nỗi buồn và những cảm xúc khác trong lao động và sinh hoạt hàng ngày.
~Theo Unesco