Nguyên đơn là bà Lê Thị Th. không xác định được vị trí đất mà mình mua nằm ở đâu, diện tích bao nhiêu, không thể chứng minh được yêu cầu khởi kiện. Hơn nữa, các loại giấy tờ, thủ tục sang nhượng đất dù không hợp lệ nhưng cả 2 cấp tòa vẫn tiến hành phán quyết bà Lê Thị Th. thắng kiện. Liệu hội đồng xét xử có đang quá “ưu ái” cho nguyên đơn?
Khi không xuất hiện “Oan gia”
Ông Nguyễn Hữu Vĩnh (trú tại phường Thạnh Mỹ Lợi, thành phố Thủ Đức) cho biết, năm 2016, vợ chồng ông nhận chuyển nhượng từ ông Ngô Tấn Quang (ngụ tại thị trấn Liên Nghĩa, Đức Trọng, Lâm Đồng) thửa đất 296 thuộc một phần thửa đất 19 và 20, tờ bản đồ số 14, thuộc thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng.
Sau đó, ông Vĩnh được xác nhận vào trang số 03 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số CD506232. Khi thực hiện xong thủ tục, ông Vĩnh tiến hành xây dựng nhà ở một phần và một phần cho phòng vé máy bay thuê lại. Tuy nhiên, giữa năm 2017, khi ông đang thi công nhà ở thì bị TAND tỉnh Lâm Đồng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bởi vì tài sản của ông đang tranh chấp.
Nguyên nhân là do bà Lê Thị Th. (trú tại phường Bến Nghé, quận 1, TP HCM) đã tiến hành khởi kiện ông Ngô Tấn Quang. Bà yêu cầu TAND tỉnh Lâm Đồng công nhận 135m2 đất tọa lạc tại cổng Sân bay Liên Khương, Đức Trọng, Lân Đồng thuộc về quyền sở hữu hợp pháp của bà; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND huyện Đức Trọng cấp cho ông Quang và ông Vĩnh.
Được biết, năm 1997, ông Quang trúng đấu giá thửa đất số 20, thuộc tờ bản đồ số 14, địa phận thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng. Năm 1999, ông Quang tiến hành mua thêm thửa 19 kế bên của ông Bùi Văn Chấn. Tổng diện tích cả 2 thửa là 295m2.
Sau đó, ông Quang đã nhập 2 thửa lại với nhau và tách thành 5 lô nhỏ theo chiều ngang và đánh số thứ tự 1, 2, 3, 4, 5), ông Quang làm nhà lô số 1, 2.
Năm 2000, ông Quang và bà Lê Thị Th. đã thực hiện một cuộc giao dịch mua bán đất. Ông bán cho bà lô số 4 và 5 bằng giấy tay, 2 lô này có diện tích khoảng 60 – 70m2. Năm 2004, ông Quang bán lô số 3 (lô giữa) cho ông Nguyễn Phúc Thắng với diện tích còn lại khoảng 67,5m2. Ông Thắng sau đó đã bán lại cho ông Vĩnh.
Do diện tích nhỏ không đủ để tiến hành thủ tục cấp GCNQSDĐ mới nên ông Vĩnh đề nghị ông Quang thực hiện nhập lô số 3 vào lô số 4, số 5 (đã bán cho bà Th.) để được cấp sổ ssor. Ông Quang đồng ý và xin Nhà nước điều chỉnh thửa 19, 20 thành 2 thửa mới đó là 295 (lô 1, 2) và thửa 296 (lô 3, 4, 5).
“Ông Quang khi đó có nói với tôi, 2 lô số 4 và số 5 năm 2000 tuy đã được bán cho bà Th. nhưng từ khi bán đến thời điểm hiện tại bà ấy không quan tâm đến thửa đất này. Bây giờ nếu không thực hiện nhập lô của tôi lại thì bà Th. cũng không đủ để được cấp sổ. Trước mắt, chúng ta cứ nhập vào để ra sổ, sau này tôi sẽ làm việc với bà Th. bán lại cho ông, yên tâm đi bởi vì tôi và bà Th. là chỗ thân quen nói không vấn đề gì hết”, ông Vĩnh thông tin.
Sau khi được cấp GCNQSDĐ, ông Quang và ông Vĩnh tiến hành ký kết hợp đồng chuyển nhượng thửa đất 296 như đã thỏa thuận hứa mua bán trước đó với diện tích 127,1m2. Đến năm 2017, trong quá trình xây dựng nhà ở thửa 296 thì ông nhận được thông báo buộc dừng thi công.
Ngày 2/6/2017, bà Th. đã gửi đơn khởi kiện ông Quang và yêu cầu tòa công nhận phần đất diện tích thuộc thửa 19 có nguồn gốc từ ông Bùi Văn Chấn thuộc về bà. Điều đáng nhắc đến ở đây, phần yêu cầu của bà Th. không đúng với vị trí lô số 4 và lô số 5 mà ông Quang đã bán cho bà trước đó.
Đến năm 2022, bất ngờ bà Th. nộp đơn yêu cầu khởi kiện bổ sung, với nội dung hoàn toàn khác, đó là tranh chấp toàn bộ lô 296, trong đó bao gồm lô đất của ông Vĩnh. Sau đó, Toà án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng tiến hành xét xử và tuyên án lô đất 296 thuộc về bà Th.
Điều bất thường là đơn khởi kiện và các văn bản ghi lời khai năm 2017 của bà Th. cũng như những chứng cứ, lời khai trước tòa của bị đơn, của luật sư và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bị bác bỏ hoàn toàn. Chỉ công nhận duy nhất đơn khởi kiện được bà Th. bổ sung vào năm 2022 và tuyên bà Th. là người sở hữu hợp pháp thửa 296, hủy GCNQSDĐ của ông Quang và ông Vĩnh.
Theo đó, cả 2 bản án sơ thẩm và phúc thẩm của Toà án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng và Toà án Nhân dân Cấp cao tại TP HCM tuyên hủy GCNQSDĐ thửa 296; công nhận bà Th. được quyền liên hệ đến cơ quan liên quan để cấp GCNQSDĐ mới, khiến ông Vĩnh bị oan. Bởi thửa đất mua hợp pháp bỗng dưng bị tòa án “trao tay” cho người khác.
Trong rất nhiều văn bản nộp tại tòa án năm 2017, bà Th. thừa nhận bản thân chỉ mua 2 lô số 4 và 5 từ ông Quang vào năm 2000 với số tiền 180.000.000 đồng. Từ khi ký giấy chuyển nhượng thì bà Th. không tiến hành nhận đất, không quản lý, sử dụng, bỏ mặc như vậy khoảng 17 năm. Đặc biệt, bà không thực hiện nghĩa vụ thuế trước pháp luật.
Đábf ngạc nhiên, việc mua bán đất giữa bà Th. và ông Quang là giấy tờ viết tay, không có công chứng, chứng thực, không có số lô, số thửa và không ghi cụ thể diện tích là bao nhiêu. Ngược lại, việc mua bán của ông Vĩnh và những bên có hợp đồng công chứng, đã được Nhà nước công nhận. Thế nhưng, hội đồng xét xử lại cố tình “phủi” toàn bộ chứng cứ có tính pháp lý cao hơn và tiến hành công nhận một tờ giấy tay vô hiệu.
Ngoài ra, ông Vĩnh còn thắc mắc tại sao nguyên đơn khai mua 2 lô đất, hội đồng xét xử, thẩm phán Bùi Hữu Nhân lại công nhận bà Th. sở hữu 3 lô? Đơn yêu cầu hủy thửa 296, hội đồng xét xử tuyên hủy thửa 19 cũ? Điều đó khiến cho diện tích đất nằm ngoài phạm vi bị kiện cũng chịu ảnh hưởng, nếu bà Th. thắng kiện làm thế nào có thể thi hành án?
Phiên toà xuất hiện dấu hiệu áp dụng sai điều luật để “ưu ái” cho nguyên đơn hay không?
Ngày 30/3/2023, liên quan đến vụ việc này, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) Cấp cao tại TP HCM đã đưa ra văn bản đề nghị Viện trưởng VKSND Tối cao xem xét, quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án số 20/2023/DS-PT ngày 16/1/2023 của Toà án Nhân dân Cấp cao tại TP HCM.
VKSND Cấp cao tại TP HCM cho rằng bản án sơ thẩm và phúc thẩm áp dụng tại điểm b.1 và b.2, tiểu mục 2.3, mục 2, phần 11, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao nhằm công nhận “giấy sang nhượng đất xây nhà ở” ngày 7/9/2000 giữa ông Quang và bà Th. là áp dụng không đúng với những điều luật. Bởi vì thửa đất 296 mà các bên tiến hành giao dịch không có các giấy tờ theo quy định tại tiểu mục trên và trên đất không có nhà cửa, cây trồng hat bất kỳ tài sản nào khác.
Chính vì vậy, đã vi phạm điều cấm được quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Đất đai vào năm 1993: “Không được chuyển quyền sử dụng đất trong những trường hợp sau đây: 1) Đất sử dụng không có giấy tờ hợp pháp”. Điều đó được chứng minh thông qua các loại giấy sang nhượng đất xây dựng nhà ở giữa ông Quang và bà Th. tạo ngày 7/9/2000 không công chứng, chứng thực nên hợp đồng này bị vô hiệu.
VKSND Cấp cao tại TP HCM đưa ra nhận định: Bản án sơ thẩm và phúc thẩm công nhận giấy tay sang nhượng vào ngày 7/9/2000 theo đơn khởi kiện của bà Th. là hoàn toàn trái với những quy định của điều luật nêu trên. Bên cạnh đó, quyết định này còn vi phạm Điều 691, 693, 697 Bộ luật Dân sự năm 1995, có sai lầm trong áp dụng pháp luật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của gia đình ông Quang và gia đình ông Vĩnh.
Nguồn: https://thanhtra.com.vn/